2/8/13

GS Mỹ nói về tật xấu trong giao tiếp của người Việt

Một trong những rào cản lớn nhất trong giao tiếp là đối phương không thể biết khi bạn nói "có" thì thực lòng bạn có nghĩ đúng như vậy không.

Ai đã từng ngắm cảnh bình minh chắc đều nhận thấy một điều là, ban đầu, bạn sẽ không nhìn thấy gì hết. Rồi dần dần mọi thứ mới hiện rõ hơn. Sau khi định thần lại, bạn sẽ thắc mắc tại sao vừa nãy mình lại không nhìn thấy cả những vật ở ngay trước mặt  mà chỉ thấy một khối đen đặc và đồng nhất.
Đây cũng chính là cảm giác của tôi, một công dân Mỹ, khi tới Việt Nam - tôi như người đang đứng ngắm cảnh bình minh bắt đầu tỏa rạng.
Xin đơn cử ra đây một ví dụ: lần đầu tiên khi tới đất nước này, đối với tôi nụ cười chỉ đơn thuần là nụ cười, và nó truyền tải thông điệp về sự mừng vui. Nhưng cho tới giờ, dù tổng số thời gian tôi ở Việt Nam chỉ vẻn vẹn có 4 tuần, song kho từ vựng của tôi về các kiểu cười đã được mở rộng đáng kể.
Chẳng hạn, có nụ cười mang ý: "Đúng, anh có thể làm việc đó", nhưng cũng lại có nụ cười như muốn bảo: "Anh không được làm như thế đâu!". Có nụ cười thể hiện rằng: "Tôi rất vui được gặp anh", nhưng cũng có nụ cười hàm ý ngược lại.
Ngoài ra còn một số kiểu cười thể hiện tâm trạng không mấy vui vẻ của chủ nhân như: "Tôi rất thất vọng", "Tôi không hiểu", "Tôi đang bực mình đây", và "Tôi muốn anh xéo đi chỗ khác!"
Trước đây, những nụ cười này chỉ mang một hoặc một vài ý nghĩa dễ hiểu. Thế mà giờ đây chúng lại đan xen biết bao nhiêu lớp nghĩa, khiến tôi không khỏi băn khoăn rồi theo thời gian, sẽ có thêm bao nhiêu ý nghĩa nữa được gán cho nụ cười của người Việt Nam.
Người phương Tây khi tới khu vực Đông Nam Á thường hay bình luận hoặc phàn nàn về những khó khăn trong giao tiếp cũng như về cái "khó hiểu" của người dân sở tại. Tôi không nói rằng người Việt khó hiểu, song để hiểu được họ chắc tôi cũng phải đầu tư kha khá thời gian.
Những khác biệt về của cải
Tôi đã hai lần tới Việt Nam (và hy vọng sẽ được quay lại đây nhiều lần nữa). Dưới đây là một số quan sát của tôi về người Việt, hay chính xác hơn là những quan sát này giúp tôi tìm hiểu rõ hơn về con người Việt.
Cái mà tôi nhận thấy nhiều nhất - cũng là cái "che mắt" tôi nhiều nhất - là những khác biệt về của cải.
Người phương tây chẳng gặp khó khăn gì khi bắt chuyện với người Việt. Nếu bạn tỏ ra thân thiện, lịch sự, và đi một mình, thì hầu như ai cũng sẵn lòng nói chuyện với bạn. Vì tôi không biết tiếng Việt, nên những cuộc trò chuyện của tôi rất phong phú, từ thứ ngôn ngữ cơ thể đơn giản cho tới những cuộc thảo luận sâu sắc với các học giả sở tại thông thuộc ngoại ngữ.
Người ta nói với tôi rằng (tuy tôi chưa có cách nào kiểm chứng điều này cả) người Việt Nam thường thân thiện với người nước ngoài hơn là với chính người đồng hương. Nhưng có một điều tôi chắc chắn, đó là trong nhiều quốc gia tôi từng đặt chân tới, thì Việt Nam là một trong những điểm đến ưa thích của tôi, bởi vì ở đây tôi có thể có những cuộc chuyện trò ý nghĩa với nhiều người.
Vì vậy mà tôi mới nhận thấy một vấn đề về tiền bạc. Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, Việt Nam đã và luôn là một nơi an toàn và tin cậy để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Tôi không phàn nàn gì về những lối cư xử thiếu công bằng ở đây. Thực ra, tôi không có gì phải phàn nàn cả, chỉ đơn giản là một nhận xét thôi.
Người Việt không nên cho rằng vì họ không công khai thể hiện thái độ của mình mà người phương Tây không biết họ suy nghĩ ra sao về chuyện tiền bạc.
Ngược lại, tôi lại quan sát được điều này khá thường xuyên; và chẳng khó khăn gì để đoán được suy nghĩ trong đầu một ai đó khi họ đang có những ý nghĩ dạng như: "Anh ta có nhiều tiền hơn mình, thế thì tại sao anh ta lại không mua nó nhỉ?", và "Nên làm gì để ra vẻ rằng mình không quan tâm tới tiền nong đây?"
Đến đây xuất hiện một điểm quan trọng - mà tôi hy vọng rằng nó sẽ không bị bỏ qua. Tôi không cảm thấy khó chịu khi thấy người Việt Nam suy nghĩ về tiền bạc.
Xã hội phương Tây, đặc biệt là xã hội Mỹ, đã lầm khi nghĩ rằng lúc nào cũng nên coi người châu Á là khác lạ. Ông bà tôi là người nhập cư, và cả ba thế hệ trong gia đình tôi đều đã phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày, nhọc công vắt sức ra để kiếm tiền.
Thực tế này không có nghĩa là nền văn hóa của chúng ta giống nhau, hay là người Mỹ không cần phải làm gì để hiểu cho rõ về tình hình xã hội ở Việt Nam.
Nhưng như thế có nghĩa là một cuộc nói chuyện thẳng thắn về tiền bạc không phải là điều gì đáng ngại ngùng, có hại, hay phản tác dụng cả. Thật ra, nó có thể khiến mọi việc trở nên tốt đẹp hơn.
"Xin đừng nói có, nếu bạn không muốn"
Khi ở Việt Nam tôi học được câu "Vấn đề đầu tiên là tiền đâu". Tôi đã viết câu đó lên một mảnh giấy rồi giơ lên cho những người khác xem với hy vọng rằng nó sẽ giúp cho cuộc nói chuyện của chúng tôi trở nên thành thật và thẳng thắn hơn. Thẳng thắn không phải là một đức tính xấu.
Theo tôi, điều này dẫn tới một thách thức lớn trong việc xây dựng mối quan hệ cá nhân tốt đẹp hơn giữa người Việt Nam và người Mỹ.
Vấn đề chính không phải là mâu thuẫn, dù rằng chúng ta có thể làm nhiều hơn nữa để đóng góp cho những cuộc thảo luận về các mâu thuẫn giữa hai dân tộc trong cả quá khứ và hiện tại.
Cái nguy hại ở đây là quan điểm cho rằng vì cơ hội tiếp xúc giữa người dân hai nước ngày càng lớn, nên mặc nhiên điều đó sẽ tự động củng cố sự hiểu biết lẫn nhau, hoặc cái sự hiểu biết này là không thật cần thiết.
Tôi xin nói về quan điểm thứ hai trước: chẳng phải tìm đâu xa, lần gần đây nhất tới thăm Việt Nam, tôi đã nhận thấy nhiều dấu hiệu đáng lo ngại cho thấy sự tức giận ngày càng gia tăng cả về phía người dân Việt Nam và người phương Tây.
Du khách phương Tây tới Sapa không giấu nổi những khó chịu vì liên tục bị làm phiền, khiến họ không thể tự do chiêm ngưỡng cảnh đẹp nơi cao nguyên, còn những người bán dạo địa phương thì tỏ rõ vẻ bực dọc khi mà du khách còn chưa đi khỏi.


Cái vòng tròn quẩn quanh này tồn tại ở bất kỳ địa điểm du lịch đông đúc nào, song nó cũng là một dấu hiệu cho thấy cần phải xây dựng mối quan hệ giữa người Việt Nam và người phương Tây trên một nền tảng bền vững hơn so với hiện nay. Gia tăng hiểu biết lẫn nhau là một yêu cầu bắt buộc.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ không thể hiểu nhau hơn nếu chỉ biết "cười" suông như vậy, bởi cái cần có ở đây là những cuộc nói chuyện thành thật và chi tiết.
Cũng trong chuyến đi vừa rồi, tôi thậm chí còn nhờ người viết dòng chữ "Xin đừng nói có, nếu bạn không muốn" lên giấy và đưa cho bạn bè đọc trong cuộc nói chuyện giữa chúng tôi.
Một trong những rào cản lớn nhất trong giao tiếp là đối phương không thể biết khi bạn nói "có" thì thực lòng bạn có nghĩ đúng như vậy không. Bây giờ thì tôi không còn vồ vập học cách diễn giải nụ cười của người Việt Nam nữa.
Tôi không mong rằng họ sẽ thay đổi hoàn toàn cách sống của mình, bởi bản thân tôi cũng không thể làm được như thế. Nhưng tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ cùng hướng tới một mục tiêu chung là xây dựng một mối giao tiếp tích cực hơn, chất lượng hơn.
Quay trở lại với hình ảnh cảnh vật từ từ ló hiện sau màn đêm, tôi nhận thấy rằng mối quan hệ giữa người Việt Nam và người phương Tây đang tiến dần đến giai đoạn "bình minh" rồi.
Điều này đôi khi sẽ gây thêm nhiều khó khăn vì chúng ta không còn nhiều "bóng tối" để có thể giấu mình lại. Nhưng nó cũng khiến mọi việc trở nên tốt đẹp hơn vì tuy chúng ta kết thêm bạn mới nhờ vào những nụ cười, cử chỉ hay thói quen, song chúng ta lại không thể trở thành những người bạn mới được.
Mà những tình bạn mới và tốt đẹp hơn lại là những thứ chúng ta cần.
Thủy Nguyệt dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét